VIP Column
Thụ tinh trong ống nghiệm ở Nhật
Dr.Shiotani Masahide
Bí quyết khiến kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm của Nhật được đánh giá cao là gì?
Điểm đặc trưng ở thụ tinh trong ống nghiệm của Nhật là việc ứng dụng kiến thức cơ bản, có được từ việc thí nghiệm trên động vật, để nâng cao thành tích trị liệu trong thụ tinh trong ống nghiệm ở người.
Ví dụ, việc nuôi cấy trứng đã thụ tinh trong môi trường nồng độ oxy thấp, mà hiện nay đang phổ biến trên thế giới, là ứng dụng thành quả thí nghiệm trên chuột, được thực hiện xoay quanh giáo sư Yoichi Noda - người thầy của tôi - vào khoảng cuối những năm 1980. Vào thời điểm đó, nồng độ oxy trong máy ấp trứng của thụ tinh trong ống nghiệm là 20%. Trong máy ấp trứng này, việc nuôi cấy trứng đã thụ tinh thành phôi nang đến ngày thứ 5 là điều không hề dễ dàng. Nồng độ oxy cao khiến độc tính bùng phát. Nhóm nghiên cứu Đại học Kyoto phát hiện ra rằng, nồng độ oxy trong ống dẫn trứng của con người là 5%. Sau khi thử nuôi trứng đã thụ tinh của chuột ở nồng độ oxy 5%, họ đã thu được kết quả tốt ngoài sức tưởng tượng. Sau đó, khi cũng thử ứng dụng nuôi cấy ở môi trường nồng độ oxy thấp này cho con người, việc nuôi cấy trứng đã thụ tinh của con người thành phôi nang đến ngày thứ 5 đã trở nên khả thi. Nhờ phát hiện này, việc nuôi cấy phôi nang của con người đã có một bước tiến lớn. Có thể nói, đây là một trong những nghiên cứu nền tảng của y học sinh sản nói chung, ngành thụ tinh trong ống nghiệm nói riêng.
Ví dụ thứ hai là kỹ thuật đông lạnh trứng đã thụ tinh bằng phương pháp thủy tinh hóa. Kỹ thuật này được phát minh ra ở Nhật, ban đầu được sử dụng trong công nghệ đông lạnh trứng của con bò. Trước khi phát minh ra kỹ thuật đông lạnh bằng phương pháp thủy tinh hóa, việc bảo quản trứng đã thụ tinh bằng phương pháp đông lạnh là điều không hề dễ dàng, thành tích cũng không được tốt. Sau đó, nhờ việc ứng dụng kỹ thuật đông lạnh bằng phương pháp thủy tinh hóa ở bò vào thụ tinh trong ống nghiệm của người đã thu được thành tích xuất sắc. Giờ đây, đông lạnh bằng phương pháp thủy tinh hóa đã trở thành kỹ thuật không thể thiếu trong thụ tinh trong ống nghiệm, và nền tảng cho kỹ thuật này chính là thành quả nghiên cứu ban đầu của Nhật Bản.
Một đặc trưng nữa về thụ tinh trong ống nghiệm của Nhật Bản là khả năng thực hiện kỹ thuật một cách tinh tế và khéo léo. Trứng, trứng đã thụ tinh và tinh trùng đều rất mong manh. Đặc biệt, độ tuổi càng cao, chúng càng trở nên mong manh và nhạy cảm hơn. Vì vậy, khi điều trị, việc cố gắng không gây tổn thương cho trứng, trứng đã thụ tinh và tinh trùng là điều rất quan trọng. Trong cả quá trình điều trị - bao gồm lấy trứng, thụ tinh, đông lạnh - đều cần những kỹ thuật khéo léo và tinh tế. Về điểm này, các chuyên viên nuôi cấy phôi người Nhật vốn bẩm sinh đã mang trong mình những phẩm chất đó. Không những thế, chúng tôi còn được trải qua đào tạo bài bản và chuyên sâu, vì thế có thể kỳ vọng sẽ đạt được kết quả tốt.
Hơn nữa, Nhật Bản là một trong những quốc gia sớm nhất áp dụng và phát triển các kỹ thuật ít gây gánh nặng cho trứng nhất, trong đó tiêu biểu là kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn PIEZO-ICSI. Hiện nay, đây là kỹ thuật mới và tiên tiến nhất của kỹ thuật ICSI. Kỹ thuật này được ứng dụng ở Nhật từ rất sớm, hầu hết các cơ sở y tế điều trị hiếm muộn đều có thể thực hiện kỹ thuật này, chính vì vậy mà so với nhiều nước khác trên thế giới, các bác sĩ ở Nhật có kinh nghiệm phong phú và dày dặn hơn.
Trên đây là phần giới thiệu của tôi về đặc trưng của thụ tinh trong ống nghiệm ở Nhật Bản. Đây cũng là một trong những lý do khiến kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm của Nhật đạt được trình độ cao như hiện nay.
Ví dụ, việc nuôi cấy trứng đã thụ tinh trong môi trường nồng độ oxy thấp, mà hiện nay đang phổ biến trên thế giới, là ứng dụng thành quả thí nghiệm trên chuột, được thực hiện xoay quanh giáo sư Yoichi Noda - người thầy của tôi - vào khoảng cuối những năm 1980. Vào thời điểm đó, nồng độ oxy trong máy ấp trứng của thụ tinh trong ống nghiệm là 20%. Trong máy ấp trứng này, việc nuôi cấy trứng đã thụ tinh thành phôi nang đến ngày thứ 5 là điều không hề dễ dàng. Nồng độ oxy cao khiến độc tính bùng phát. Nhóm nghiên cứu Đại học Kyoto phát hiện ra rằng, nồng độ oxy trong ống dẫn trứng của con người là 5%. Sau khi thử nuôi trứng đã thụ tinh của chuột ở nồng độ oxy 5%, họ đã thu được kết quả tốt ngoài sức tưởng tượng. Sau đó, khi cũng thử ứng dụng nuôi cấy ở môi trường nồng độ oxy thấp này cho con người, việc nuôi cấy trứng đã thụ tinh của con người thành phôi nang đến ngày thứ 5 đã trở nên khả thi. Nhờ phát hiện này, việc nuôi cấy phôi nang của con người đã có một bước tiến lớn. Có thể nói, đây là một trong những nghiên cứu nền tảng của y học sinh sản nói chung, ngành thụ tinh trong ống nghiệm nói riêng.
Ví dụ thứ hai là kỹ thuật đông lạnh trứng đã thụ tinh bằng phương pháp thủy tinh hóa. Kỹ thuật này được phát minh ra ở Nhật, ban đầu được sử dụng trong công nghệ đông lạnh trứng của con bò. Trước khi phát minh ra kỹ thuật đông lạnh bằng phương pháp thủy tinh hóa, việc bảo quản trứng đã thụ tinh bằng phương pháp đông lạnh là điều không hề dễ dàng, thành tích cũng không được tốt. Sau đó, nhờ việc ứng dụng kỹ thuật đông lạnh bằng phương pháp thủy tinh hóa ở bò vào thụ tinh trong ống nghiệm của người đã thu được thành tích xuất sắc. Giờ đây, đông lạnh bằng phương pháp thủy tinh hóa đã trở thành kỹ thuật không thể thiếu trong thụ tinh trong ống nghiệm, và nền tảng cho kỹ thuật này chính là thành quả nghiên cứu ban đầu của Nhật Bản.
Một đặc trưng nữa về thụ tinh trong ống nghiệm của Nhật Bản là khả năng thực hiện kỹ thuật một cách tinh tế và khéo léo. Trứng, trứng đã thụ tinh và tinh trùng đều rất mong manh. Đặc biệt, độ tuổi càng cao, chúng càng trở nên mong manh và nhạy cảm hơn. Vì vậy, khi điều trị, việc cố gắng không gây tổn thương cho trứng, trứng đã thụ tinh và tinh trùng là điều rất quan trọng. Trong cả quá trình điều trị - bao gồm lấy trứng, thụ tinh, đông lạnh - đều cần những kỹ thuật khéo léo và tinh tế. Về điểm này, các chuyên viên nuôi cấy phôi người Nhật vốn bẩm sinh đã mang trong mình những phẩm chất đó. Không những thế, chúng tôi còn được trải qua đào tạo bài bản và chuyên sâu, vì thế có thể kỳ vọng sẽ đạt được kết quả tốt.
Hơn nữa, Nhật Bản là một trong những quốc gia sớm nhất áp dụng và phát triển các kỹ thuật ít gây gánh nặng cho trứng nhất, trong đó tiêu biểu là kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn PIEZO-ICSI. Hiện nay, đây là kỹ thuật mới và tiên tiến nhất của kỹ thuật ICSI. Kỹ thuật này được ứng dụng ở Nhật từ rất sớm, hầu hết các cơ sở y tế điều trị hiếm muộn đều có thể thực hiện kỹ thuật này, chính vì vậy mà so với nhiều nước khác trên thế giới, các bác sĩ ở Nhật có kinh nghiệm phong phú và dày dặn hơn.
Trên đây là phần giới thiệu của tôi về đặc trưng của thụ tinh trong ống nghiệm ở Nhật Bản. Đây cũng là một trong những lý do khiến kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm của Nhật đạt được trình độ cao như hiện nay.
VIP Column Dr.塩谷雅英(Shiotani Masahide)
Bác sĩ Shiotani Masahide_Chủ tịch HĐQT hiệp hội pháp nhân ý tế phòng khám
HANABUSA WOMEN'S